Quả Ớt (Capsicum anuum) đã là một phần trong ẩm thực của con người từ những năm 7500 trước Công nguyên. Có bằng chứng khảo cổ học ở tây nam Ecuador cho thấy ớt đã được thuần hóa cách đây hơn 6000 năm, trở thành một trong những cây nông nghiệp đầu tiên ở châu Mỹ.

Christopher Columbus là một trong những người châu Âu đầu tiên nhìn thấy ớt (ở Caribê) và gọi chúng là “ớt” vì chúng có vị cay tương tự như loại tiêu mà ông biết từ Ấn Độ. Diego Álvarez Chanca, một bác sĩ trong chuyến đi thứ hai của Columbus đến Tây Ấn vào năm 1493, đã mang những hạt ớt đầu tiên trở lại Tây Ban Nha và viết về tác dụng dược lý của nó. Với sự giúp đỡ của các thủy thủ châu Âu, cây cối nhanh chóng được chuyển đến Philippines và sau đó là Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Loại gia vị mới này nhanh chóng được đưa vào nhà bếp ở các quốc gia này. Không lâu sau đó ớt được đưa đến Ấn Độ và từ đó nó đã được sử dụng nhiều ở Ấn Độ trong việc chế biến món ăn, đặc biệt là ở vùng Goa. Hiện nay, Ấn Độ là nước sản xuất ớt lớn nhất thế giới với khoảng 1 triệu tấn mỗi năm. Ở Việt Nam,

Ớt là loại cây chịu nhiệt. Nhiệt độ tốt nhất cho cây sinh trưởng từ 18C đến 30C, trên 32C đến dưới 15C cây sinh trưởng kém, hoa dễ rụng.

Theo tài liệu, ớt có những tác dụng đối với sức khỏe như cải thiện chức năng tim, giảm mức độ cholesterol xấu (mật độ thấp), làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư tuyến tiền liệt và tuyến tụy, giảm đau do viêm khớp và đau cơ, chống viêm và giảm huyết áp.

Nhiều loại ớt khác nhau đã được biết đến. Loại ớt được trồng phổ biến nhất ở Việt Nam là ớt cayenne có 30.000-50.000 SHU (Scoville Heat Unit), có độ cay trung bình. Điều kiện khí hậu và canh tác cũng ảnh hưởng đến chất lượng và độ hăng. Tận dụng điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với cây ớt, cùng với bà con nông dân chúng tôi phát triển vùng trồng ớt hữu cơ tại các huyện Hòa An, Hà Quảng (Cao Bằng). Trong điều kiện canh tác hữu cơ, không sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, những quả ớt này cho quả đều, cùi dày, sần sùi và đặc biệt có vị thơm, cay nồng.